Lợn rừng lai

Chọn Con Giống:

Chọn giống bố mẹ là yếu tố quyết định. Lợn đực phải là Lợn rừng thuần, còn Lợn nái là Lợn địa phương thả rông. Lợn rừng thuần chủng ở Việt Nam thông thường là giống Lợn hoang dã được thuần hóa, có nguồn gốc từ Thái Lan  Việt Nam, có hai nhóm nhóm mặt dài và nhóm mặt ngắn. Tốt nhất, nên cho Lợn rừng lai cái phối giống với Lợn rừng đực hoặc cho Lợn rừng lai cái phối giống với Lợn rừng lai đực để tạo ra con lai thương phẩm nuôi thịt…

Kỹ thuật nuôi heo rừng hoang dã
Kỹ thuật nuôi heo rừng hoang dã

Tại Bình Định ( Nông Nghiệp Xanh Bình Định ), qua thực tế nuôi 2 giống Lợn rừng lai có nguồn gốc Thái Lan thì các giống Lợn này phát triển tốt trong điều kiện nuôi đơn giản. Đàn Lợn sinh trưởng ổn định, chưa phát hiện dịch bệnh gì. Nuôi Lợn rừng lai với hai loại giống Lợn rừng có nguồn gốc Thái Lan (một giống có lông màu nâu bạc má và một giống có lông màu đen tuyền (moocpa) đã được thuần hóa. Hiện nay để có giống Lợn rừng lai mà nuôi, nên thực hiện theo cách người thiểu số trước đây đã làm là cũng cho đàn Lợn cái nội địa (giống Lợn gần như hoang dã) phối với Lợn đực rừng thuần chủng.

Thời điểm phối giống thích hợp thì người ta sẽ bỏ qua 1-2 lần động dục đầu tiên vì cơ thể chưa hoàn thiện, trứng rụng ít nên khó thụ thai. Chu kỳ động dục của Lợn là 21 ngày, thời gian động dục kéo dài 3-5 ngày. Thời điểm phối giống thích hợp vào cuối ngày thứ 2 hoặc đầu ngày thứ 3. Khi âm hộ chuyển từ màu hồng tươi sang màu hồng tái, có nếp nhăn và dịch nhờn tiết ra nhiều, tai chĩa về phía trước, có phản xạ đứng im (mê ì) là thời điểm phối giống thích hợp nhất. Khi Lợn cái có dấu hiệu động dục cho Lợn đực vào khu nuôi Lợn cái, hoặc Lợn cái vào khu nuôi Lợn đực. Lợn đực sẽ phối giống đến khi Lợn cái không chịu nữa mới thôi. Có thể cho phối kép 2 lần vào lúc sáng sớm và chiều mát (hoặc ngược lại). Sau 21 ngày, Lợn cái không động dục trở lại, có thể Lợn cái đã có thai

Lợn đực giống có ý nghĩa quan trọng trong việc gây đàn. Quản lý và chăm sóc tốt 1 Lợn đực có thể phối 5-10 Lợn cái. Lợn đực giống phải nuôi riêng và có chế độ bồi dưỡng, nhất là thức ăn tinh giàu đạm, khoáng, sinh tố. Ngày phối giống nên bổ sung thêm thức ăn tinh giàu chất dinh dưỡng, 1 -2 quả trứng gà, muối khoáng, sinh tố cho ăn tự do. Đối với Lợn cái giống thì Đối với Lợn nái mang thai, 2 tháng đầu mang thai cho ăn khẩu phần thức ăn bình thường rau, củ, quả hạt ngũ cốc các loại, có thể bổ sung thêm thức ăn tinh hỗn hợp, 15g muối, 20g khoáng mỗi ngày.

Sau 2 tháng đến khi đẻ cần thiết phải bổ sung thêm thức ăn tinh giàu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng, sinh tố… Ngày Lợn đẻ có thể cho Lợn ăn cháo loãng, ít muối, ít rau xanh để đề phòng sốt sữa. Đối với Lợn nái nuôi con, khẩu phần thức ăn phải đảm bảo số lượng, chất lượng và chủng loại. Khi

Lợn con được 1,5-2 tháng tuổi, đã ăn được thức ăn do con người cung cấp thì cho mẹ ăn khẩu phần ăn bình thường. Không nên phối giống cho Lợn mẹ động dục trong thời kỳ nuôi con, vì khó thụ thai hoặc thụ thai nhưng số lượng và chất lượng Lợn con sinh ra không đạt yêu cầu.

Lợn con không cần đỡ đẻ, cắt rốn, chỉ khoảng 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ Lợn con đã có thể đứng dậy bú mẹ. 15- 20 ngày chạy lon ton và bắt đầu tập ăn cỏ, cây: Lợn con được 1,5-2 tháng tuổi đã cứng cáp, ăn được thức ăn do con người cung cấp thì cai sữa, tách bầy làm giống. Lợn sơ sinh có thể đạt 300- 500 gr/con, 1 tháng tuổi 3–5 kg, 2 tháng tuổi 8–10 kg, 6 tháng tuổi 25–30 kg, 12 tháng tuổi có thể đạt 60-70% trọng lượng trưởng thành. Với cách nuôi và chế độ dinh dưỡng thông thường, sau 6 tháng nuôi, Lợn con có thể đạt trọng lượng 25– 30 kg và bán thịt. Nên tạo điều kiện cho Lợn con bú sữa đầu càng sớm, cảng tốt, chậm nhất 1 -2 giờ sau khi sinh. Hàng ngày, nên cho Lợn con vận động và tiếp xúc gần gũi với con người.

Mô hình nuôi:

Trên thực tế, người ta nuôi Lợn rừng lai dưới ba cách chủ yếu là nuôi nhốt, nuôi thả tự do, nuôi Lợn trong vòng rào. Tùy vào điều kiện thổ nhưỡng mà nuôi Lợn rừng lai theo một trong 3 cách nuôi nhốt, nuôi thả tự do và nuôi trong vòng rào. Riêng ở Bình Định, nuôi Lợn rừng lai trong vòng rào là thích hợp nhất. Đây là cách nuôi phối hợp giữa nuôi nhốt và nuôi thả rong. Nhìn chung, Lợn rừng thích hợp với phương thức chăn nuôi chăn thả trong vườn cây có rào dậu hay chăn thả tự nhiên, ít có sự tác động con người. Lợn rừng lai rất dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao. Chuồng trại gắn với khu vườn rộng thoáng mát đảm bảo điều kiện nuôi bán hoang dã thả rông với nguồn thức ăn rau, củ quả tự nhiên.

Nuôi nhốt:

Đối với cách nuôi nhốt, nếu nuôi số lượng ít, có thể nuôi Lợn rừng lai trong chuồng như Lợn nhà. Ngăn chuồng nuôi Lợn nọc và Lợn nái nuôi con cần có diện tích rộng từ 8 đến 10 m2; chuồng nuôi Lợn lứa rộng khoảng 6 m2 cho mỗi con. Nên làm chuồng xây bằng xi măng. Mái lợp có thể làm bằng tôn, cao trên 2,5 m để tránh nóng. Vách ngăn cao từ 1,4 đến 1,6 m để tránh Lợn phóng ra ngoài. Nền chuồng nên đúc bê tông cho đủ chắc chắn, vì Lợn rừng lai thường dùng mõm đào bới thoát ra ngoài.

Chăn nuôi lợn rừng nuôi nhốt
Chăn nuôi lợn rừng nuôi nhốt

Lợn rừng lai nuôi nhốt vẫn sinh trưởng bình thường nhưng do chuồng hẹp, Lợn ít vận động nên dễ bị trường hợp mập mỡ, do đó nuôi Lợn thịt theo cách này cho sản phẩm kém. Lợn giống nuôi nhốt cũng không tốt vì Lợn nọc và cả Lợn nái đều thiếu vận động nên sức khỏe kém. Một hạn chế khác của cách nuôi nhốt là người nuôi phải cung cấp đầy đủ thức ăn cho Lợn, trong đó có vitamin và khoáng chất, vì Lợn không thể kiếm ăn thêm bên ngoài.

Chuồng trại rất đơn giản, tuy nhiên phải nắm vững một số đặc điểm và tập tính của Lợn rừng lai để bố trí chuồng trại hợp lý. Tùy điều kiện đất đai, vốn luyến, quy mô và mục đích nuôi Lợn sinh sản hoặc cung cấp thịt, có thể bố trí và xây dựng chuồng trại khác nhau nhưng nhìn chung phải đảm bảo yếu tố rộng, thoáng. Nên chọn khu đất cao, thoát nước tốt, có nguồn nước sạch. Nó không những cung cấp đủ nước cho Lợn uống mà quan trọng hơn là duy trì được hệ thực vật phong phú tại nơi nuôi và giữ được độ ẩm thích hợp.

Chuồng trại càng cách xa khu dân cư và đường sá càng tốt. Bản năng hoang dã đã đưa chúng vào tình trạng cảnh giác và luôn hoảng hốt bỏ chạy khi nghe có tiếng động. Địa điểm nuôi Lợn rừng lai phải là điểm mới, cách xa khu dân cư, xa đường quốc lộ. Khu vực nuôi Lợn rừng lai càng vắng vẻ, càng yên tĩnh, càng tốt vì lợn rừng lai rất thính tai và sợ tiếng động đột ngột. Chuồng trại thông thoáng, đón được

ánh nắng buổi sáng, không bị hắt nắng buổi chiều, tránh được mưa hắt từ phía tây và gió bấc lùa vào mùa rét.

Đối với mô hình nuôi nhốt. Chuồng được xây dựng đơn giản bằng gạch (khoảng 4m2 mỗi chuồng), có cửa chuồng, có mái che. Có thể xây theo kiểu hệ thống chuồng liên kề với các cửa thông nhau. Nên để một khoảng đất trống (có rào lưới chắc chắn – thường sử dụng là lưới B40) để thả Lợn con và để Lợn được sưởi nắng, diện tích tối thiểu là 4 m2/con. Trong khoảng đất trống nên trồng thêm một số cây để tạo bóng mát cho Lợn. Càng nhiều cây rậm rạp càng tốt vì chúng thích hợp với bản chất của con Lợn rừng.

Trong chuồng nên có một hồ nước xây nghiêng để Lợn vào uống nước và dầm mình. Nó không những cung cấp đủ nước cho Lợn uống mà quan trọng hơn là nó sẽ duy trì được hệ thực vật phong phú tại nơi nuôi chúng và giữ được độ ẩm thích hợp. Chuồng nên xây trên nền đất cao ráo, dễ thoát nước, không ẩm ướt để tránh nước đọng và cũng dễ dàng vệ sinh chuồng trại. Trong nền chuồng nên treo bằng lá chuối khô và rơm khô.

Thả Tự Do:
Lợn rừng lai được thả tự do
Lợn rừng lai được thả tự do

Cách nuôi thả tự do là cách nuôi mà đa số các người dân tộc thường áp dụng. Với cách nuôi này, đòi hỏi phải có đất đai rộng, có rẫy rừng, có thức ăn tự nhiên phong phú. Suốt ngày bầy Lợn ở trong rừng kiếm thức ăn từ cây cỏ trong rừng. Về nhà người nuôi cho ăn thêm thức ăn bổ sung như cám trộn, khoai, rau. Tuy nhiên nơi thả rông đàn Lợn phải cách xa ruộng vườn, nơi trồng hoa màu nhằm tránh đàn Lợn phá phách.

Nuôi Lợn rừng lai theo cách thả ruộng có nhiều thuận lợi không tốn kém nhiều chi phí thức ăn. Lợn vận động ngoài trời nên khỏe mạnh, có sức đề kháng cao, ít bệnh tật. Lợn mẹ sinh dễ dàng, bầy Lợn con khỏe mạnh, ít hao hụt. Nhờ hấp thụ những chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn tự nhiên ngoài rừng nên Lợn rừng lai trên đảo Hòn Tre (Khánh Hòa) rất dễ nuôi, lại cho thịt nhiều nạc, mềm, rất ít mỡ[24]. Trước tiên, đó là tạo môi trường hoang dã cho chúng. Cũng thả rông nhưng vườn phải rộng để Lợn vận động, có nhiều cây cối, có cỏ, có ao nước.

Cách nuôi Lợn nội địa của người dân tộc thiểu số là hằng ngày từ tờ mờ sáng, họ lùa cả bầy đàn vào rừng cho chúng tự kiếm ăn các thứ rau cỏ hoang dại sẵn có trong rừng. Đến chiều tối, đàn Lợn tự biết tìm đường trở lại nhà chẳng mấy khi bị thất lạc. Lùa cả đàn Lợn nhà vào rừng kiếm ăn cả ngày như vậy, chủ nuôi vừa đỡ tốn kém thức ăn (mỗi tối về chỉ cho Lợn ăn bổ sung thêm cho no), vừa không tốn công chăm sóc, lại vừa khỏi nuôi Lợn đực giống.

Vì mỗi Lợn cái đến kỳ động dục đã có Lợn đực rừng thuần chủng tranh nhau tìm đến phối giống cho đến khi con cái hết kỳ động dục mới thôi. Nhờ đó mà họ mới có được những đàn Lợn con rừng lai vừa có sức đề kháng cao lại có phẩm chất thịt ngon. Người dân thiểu số nuôi giống Lợn này thường không nhằm mục đích thương mại mà để dành cho việc cúng tế và tiệc tùng trong gia đình họ. Những con Lợn lai này thuộc đời F1, nếu mua con cái về cho phối với đực rừng thuần chủng thì tốt vì đàn con của nó sẽ thuộc đời F2, thuần chủng đến 75%.

Người ta còn gửi Lợn cái đen vô rừng để phối giống với Lợn rừng, mang Lợn rừng lai về nhà nuôi ở buôn Bai, xã Ea Lâm, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, con nái đen loại Lợn rừng thứ thiệt và Lợn lai là con Lợn lai có lông ngắn hơn, chân lông không hoàn toàn là 3 lông chụm một mà còn xen kẽ nhiều chân lông chỉ có một lông mà người dân tộc Ê-đê ở Ea Lâm thường nuôi thả rông dưới chân nhà sàn, Lợn rừng thường đến tận trang trại chăn nuôi trong rừng sâu của người này kiếm ăn. Cùng một mẹ sinh ra, năm con Lợn con có dáng vẻ giống hệt Lợn rừng với màu lông hung có sọc đen, con còn lại đen thui như Lợn mẹ. Điểm duy nhất để phân biệt Lợn rừng thứ thiệt và Lợn lai là con Lợn lai có lông ngắn hơn, chân lông không hoàn toàn là 3 lông chụm một mà còn xen kẽ nhiều chân lông chỉ có một lông.
Vòng rào:

Lợn rừng nuôi nhốt vòng rào
Lợn rừng nuôi nhốt vòng rào

Đối với cách nuôi Lợn trong vòng rào là kết hợp nuôi nhốt và nuôi thả rông. Cách nuôi này có nhiều thuận lợi nên được nhiều người nuôi áp dụng. Chỉ cần có miếng đất đủ rộng, chừng vài trăm mét vuông là có thể nuôi được từ mười con Lợn rừng lai trưởng thành. Nên chọn vùng đất nơi mát mẻ. Hàng rào nên làm chắc chắn để sử dụng lâu ngày và tránh trường hợp Lợn đào hang thoát ra ngoài. Quanh khu vực rào giậu phải đào móng sâu chừng 50 cm, từ đó xây tường bao cao lên khỏi mặt đất khoảng 50cm. Phần trên mặt tường bao cần phải căng kỹ lưới B40 loại cộng lớn mới đủ độ bền.

Trong khu vực nuôi, có thể phân thành nhiều ô lớn nhỏ khác nhau. Mỗi ô chuồng cũng phải xây móng thật chắc và cũng phải có tường bao. Mỗi con Lợn nái cũng như Lợn nọc cần sống trong một ô chuồng rộng chừng 10m2. Còn Lợn lứa sống trong ô chuồng rộng chừng 6m2. Như vậy nuôi khoảng 10 con Lợn nái thì ô chuồng cần rộng 100m2. Riêng Lợn nọc, phải nuôi mỗi con một ngăn chuồng, và nên cách xa chuồng nuôi Lợn nái để tránh trường hợp chúng đánh nhau.

Có thể nuôi Lợn rừng lai theo kiểu nhốt trong chuồng hoặc nuôi theo kiểu thả rông trong những khu vực có cây xanh, có rào che chắn xung quanh. Điều quan trọng là hệ thống hàng rào phải hết sức chắc chắn. Có thể vây lưới B40 thành các vườn nuôi tự nhiên, có móng kiên cố (vì Lợn rừng lai hay đào hang), mỗi vườn nuôi rộng 50-100m2 (tuỳ theo khả năng đất đai) trong đó có chuồng nuôi rộng 20 – 30m2 nuôi khoảng 4-5 Lợn cái trưởng thành, chúng sẽ sống và sinh sản trực tiếp trong khu vực này. Lợn đực giống nuôi riêng, mỗi con một vườn, mỗi vườn nuôi rộng 40 – 50m2.

Lợn rừng lai thích hợp với phương thức nuôi chăn thả trong vườn cây có rào dậu hay chăn thả tự nhiên, ít có sự tác động của con người. Việc xây dựng chuồng trại cũng không cầu kỳ, được thiết kế đơn giản, chỉ cần đảm bảo đủ điều kiện và hợp vệ sinh. Nhược điểm của mô hình này là trên thị trường đã xuất hiện loại thịt Lợn rừng giả mà người tiêu dùng rất khó phân biệt, điều này làm ảnh hưởng ít nhiều đến khả năng tiêu thụ sản phẩm. Khả năng sinh sản của giống lợn rừng còn kém, khả năng tăng đàn chậm. Lợn rừng lai dễ tích mỡ, có thể khắc phục bằng cách hạn chế thức ăn có chứa tinh bột và thay bằng các chất xơ như thân chuối, các loại rau, trái cây.

Phòng bệnh:

Lợn rừng lai là vật nuôi mới được lai tạo, sức đề phòng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, Lợn rừng lai cũng thường bị một số bệnh như dịch tả châu phi, tiêu chảy, tụ huyết trùng, lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh khác. Cần áp dụng tốt các biện pháp an toàn sinh học. Khi thời tiết thay đổi hoặc trạng thái sức khoẻ đàn lợn có biểu hiện bệnh, cần thiết phải bổ sung kháng sinh vào thức ăn hoặc nước uống cho lợn theo quy trình dùng thuốc. Tiêm phòng vắc xin định kỳ các loại bệnh như: Lở mồm long móng, dịch tả, phó thương hàn, Thì tẩy giun, sán cho Lợn là quan trọng giúp Lợn ít bị bệnh, nhanh lớn.

Khi Lợn rừng lai mắc một số bệnh về đường tiêu hoá có thể dùng các loại thuốc trị đau bụng, sình bụng, đầy hơi, khó tiêu cho uống hay chích, hoặc có thể dùng 5–10 kg rau dừa dại cho Lợn ăn hoặc bổ sung thức ăn, nước uống đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ cau, rễ dừa cũng có thể khỏi. Lợn rừng lai là loài ăn tạp nên dễ mắc bệnh ngộ độc thức ăn, nhất là thức ăn ẩm mốc, ôi thiu. Triệu chứng rõ nhất bệnh này là Lợn bị đau bụng, nôn mủa, đi đứng lảo đảo, cón bị bại hai chân sau, mắt mờ…Khi điều trị cần biết rõ nguyên nhân làm cho Lợn bị ngộ độc thì mới có cách chữa trị. Việc đầu tiên phải cho Lợn nôn mửa hết những thức ăn còn chứa trong dạ dày. Sau đó cho uống thuốc giải độc như sulfate de fe. Cho Lợn uống thật nhiều nước hoặc sửa để rửa máu.

Ký sinh trùng ngoài da có các loại ve, ghẻ, ruồi, muỗi..ít khi bám trên da hút máu và truyền bệnh ở Lợn rừng lai. Với đặc tính hoang dã nên Lợn rừng lai không sợ muỗi, côn trùng tấn công. Trường hợp Lợn bị ký sinh trùng ngoài da, có thể dùng thuốc sát trùng bôi, xịt. Để đề phòng bệnh ký sinh trùng ngoài da cho Lợn rừng lai, nên định kỳ vệ sinh, sát trùng chuồng trại và môi trường xung quanh. Bệnh chấn thương do tranh giành thức ăn, hay lúc đùa giỡn gây ra, có thể dùng Vime-Iodine bôi lên vết thương. Vết thương có khả năng tái tạo nhanh nên mau lành.

Kinh nghiệm nuôi Lợn rừng lai ở các trang trại cho biết khi cho Lợn ăn lá cây keo dậu (Lencaenna leucocephala) thì vừa là cung cấp thức ăn xanh vừa là thuốc tẩy giun đũa khá hiệu nghiệm. Bệnh giun phổi lợn do những giun tròn  ký sinh ở khí quản, phế quản. Khi mắc bệnh con vật gầy còm, ho nhiều, mệt mỏi, kém ăn, ngày càng khó thở và nếu nặng quá có thể chết. Bệnh giun phổi Lợn dễ xuất hiện sau những trận mưa dài ngày, giun đất có ấu trùng gây nhiễm mà Lợn ăn vào dễ gây bệnh giun phổi Lợn.

Thực trạng:

chuan-bi-nuoi-lon-rung
chuan-bi-nuoi-lon-rung

Ngày nay nhu cầu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi ngày càng cao, đặc biệt là các loại thịt đặc sản quý hiếm. Một trong những động vật hoang dã được nhiều người ưa chuộng đó là Lợn rừng. Thuần hóa Lợn rừng, lai tạo với Lợn nhà đang được nhiều trang trại và các cơ sở chăn nuôi nghiên cứu và ứng dụng. Nuôi lợn rừng lai được coi là một nghề nghiệp và là cách làm giàu, nuôi Lợn rừng lai được đánh giá là một hướng đi có triển vọng. Ở nhiều nơi, đây là một nghề nuôi mới, nếu còn ở thời kỳ đầu thì sinh lợi cao.

Một số địa phương ở Việt Nam, có thời điểm lợn rừng lai trọng lượng từ 20 – 25 kg/con, giá hơi là 150.000 đồng/kg, được nhiều người đặt mua cho dù so với thịt Lợn nhà giá cao hơn 50.000 đồng/kg. Nếu là Lợn rừng rặc hay lợn rừng thuần chủng (kết quả sinh sản từ Lợn rừng bố mẹ, được người dân tộc, hoặc các trang trại lớn nuôi trong điều kiện gần như tự nhiên) thì giá khoảng 260.000 đồng/kg, còn Lợn rừng lai F1 (lai Lợn rừng và Lợn thả rông của đồng bào dân tộc thiểu số các xã vùng cao và cũng được nuôi trong điều kiện hoang dã) thì giá bằng một nửa Lợn rừng rặc.

Địa phương:

Ở Việt Nam ghi nhận nhiều địa phương từ tỉnh, Thành phố, huyện, xã, phường, thị trấn, làng, thôn thậm chí là đến hộ gia đình có mô hình nuôi lợn rừng lai như một các làm ăn kinh tế nông nghiệp và nhìn chung là được nhà nước khuyến khích. Thịt Lợn rừng được nhiều tình thành ở miền trung từ Thanh Hóa trở vào, tại Thành phố Hồ Chí Minh (như tại Củ Chi) và nhiều tỉnh ở miền Tây cũng có nhiều hộ bắt đầu nhập cuộc như mô hình nuôi Lợn rừng lai.

Nhiều hộ gia đình trang trại ở miền bắc đã bắt tay vào việc nuôi Lợn rừng lai, tổ chức thuần hoá Lợn rừng, tổ chức lai tạo, chăm sóc nuôi dưỡng Lợn rừng lai, tổ chức liên doanh, liên kết tiêu thụ sản phẩm với các nhà hàng, khách sạn ở các thành phố lớn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nhiều hộ gia đình trên địa bàn tỉnh đã lai giống thành công giữa Lợn rừng hoang dã với Lợn cỏ thả rông phát triển thành trang trại chăn nuôi quy mô.

Mô hình nuôi Lợn rừng lai được Trạm Khuyến nông huyện triển khai từ năm 2011 tại một số xã, thị trấn ở Gia Lai mang lại hiệu quả khả quan. Giống Lợn rừng lai có khả năng thích nghi, sức chống chịu tốt với môi trường, nhu cầu thức ăn đơn giản, dễ nuôi, đặc biệt phù hợp với điều kiện chăn nuôi của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Nuôi lợn rừng lai dưới tán rừng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, giúp hàng trăm nghìn hộ gia đình yên tâm với công tác quản lý, bảo vệ rừng.Với quỹ đất rộng, nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp ở Tây Nguyên đang phát triển mạnh mô hình nuôi lợn rừng theo hình thức bán chăn thả. Điều này đang mở ra một hướng đi mới cho nông dân Tây Nguyên, nhất là đối với những hộ nhận khoán quản lý, bảo vệ rừng. Nuôi lợn rừng đang là nghề hấp dẫn hiện nay nhưng với kiểu nháo nhào nuôi, với những ngộ nhận như mô hình nuôi Lợn rừng lai được triển khai thử nghiệm ở huyện Tây Trà đã không mang lại hiệu quả vì đồng bào có thói quen không vệ sinh chuồng trại và cho Lợn ăn thức ăn không hợp vệ sinh, dẫn đến tình trạng Lợn chết nhiều như hiện tại.

Ở phía Bắc có 4 huyện gồm Hàm Yên, Chiêm Hóa, Nà Hang, Lâm Bình bao gồm cả lợn đen bản địa và lợn rừng lai. Các huyện này có điều kiện về đất đai, nguồn con giống, tập quán sử dụng thức ăn phù hợp. Có dự án lai tạo và sản xuất giống lợn rừng lai F1 thương phẩm trên địa bàn huyện Yên Lập Phú Thọ. Từ nuôi lợn rừng lai thương phẩm, chất lượng cao, nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo bền vững. Nuôi lợn rừng lai hướng phát triển chăn nuôi mang lại hiệu quả cao cho người nông dân Yên Bái. Nhiều hộ dân ở huyện Tân Sơn tận dụng ưu thế để xây dựng chuồng trại, chăn nuôi lợn rừng lai. Đã có nhiều hộ nông dân thoát nghèo, kinh tế khá lên từ cách thức chăn nuôi này.

Lợi thế:

Giống lợn rừng lai có đặc tính tự nhiên, hoang dã, sống bầy đàn, có sức kháng bệnh tốt, tiêu tốn ít thức ăn. Thức ăn phục vụ cho chăn nuôi lợn rừng lai F1 chỉ chiếm khoảng 15 đến 20% tổng tiền đầu tư, trong khi đó tổng tiền đầu tư thức ăn chăn nuôi đến khi xuất bán của chăn nuôi lợn phổ thông chiếm khoảng 60 đến 70%. Do đó có thể so sánh giá trị kinh tế từ chăn nuôi lợn rừng lai và chăn nuôi lợn phổ thông tại địa phương là: 20 kg lợn rừng lai trị giá bằng khoảng 60 kg lợn phổ thông bán cùng thời điểm.

Thực tế cho thấy Lợn cỏ miền núi tiêu tốn thức ăn hơn Lợn rừng lai, Lợn rừng thuần nhưng tăng trọng ít hơn, khi sinh trọng lượng Lợn sơ sinh cũng nhỏ hơn các loại Lợn nuôi khảo nghiệm, nạc nhiều, mỡ ít, hàm lượng dinh dưỡng cao, mang nhiều tính chất của Lợn rừng. Nuôi Lợn rừng lai có nhiều ưu điểm hơn so với Lợn nhà và một số con vật khác. Thức ăn cho chúng là những loại rau, củ với chi phí từ khi nuôi đến lúc bán khoảng 540.000 đồng/con. Mặt khác, sức đề kháng của chúng tốt, ít bị bệnh, nhu cầu tiêu thụ lớn nên không gặp khó khăn về đầu ra.

Lợn rừng là giống lợn đặc biệt siêu nạc, ít mỡ, thịt thơm ngon, giá trị dinh dưỡng lại cao nên ngày càng được thị trường cả nước ưa chuộng. Việc nuôi được giống lợn rừng lai không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mà còn có tác dụng tích cực trong việc gìn giữ nguồn gen các giống lợn bản địa vốn đang đứng trước tình trạng bị mai một, hạn chế săn bắt lợn rừng tự nhiên.

Nếu tính toán kỹ, giữa nuôi Lợn rừng lai với nuôi Lợn nhà (Lợn Yorkshire, Lợn Danois, Lợn Landrace) thường nuôi, thì cho thấy nuôi Lợn rừng lai có nhiều thuận lợi hơn nuôi Lợn nhà, do giá bán Lợn rừng lai (Lợn hơi) từ 60 đến 120.000 đồng/kg, còn giá Lợn giống khoảng 250.000 đồng/kg. Nuôi Lợn rừng lai có nhiều ưu điểm như tận dụng nguồn thức ăn xanh luôn sẵn có trong thiên nhiên, phẩm chất thịt luôn được thị trường ưu chuộng vì nhiều thịt, ít mỡ, chi phí chăm sóc rất ít, lợi nhuận nhiều hơn nuôi Lợn nhà. Nếu nuôi Lợn rừng lai thì nên chọn dòng lai F4, vì Lợn rừng lai F4 hoàn toàn giống Lợn rừng thuần chủng, dễ được thị trường chấp nhận. Người nuôi nên tuân thủ theo kỹ thuật, chớ chạy theo lợi nhuận mà nuôi Lợn rừng lai bằng thức ăn công nghiệp, vì thức ăn này làm cho Lợn mau lớn nhưng mỡ nhiều, thịt.

Hiện nay trên thị trường đang chuộng thịt lợn rừng lai, bởi loại thịt này thơm ngon, nhiều nạc, lượng colestoron thấp… Việc chăn nuôi lợn rừng lai đơn giản, giá thành cao hơn giống lợn thịt truyền thống, nên thu hút được đông đảo người dân tham gia. Thức ăn nuôi lợn lai đơn giản dễ kiếm, giá thành lại rẻ như rau lang, rau muống, bèo tây. Lợn rừng lai chỉ ăn từ 30 – 35 % thức ăn tinh, nên không tốn công đun nấu, hợp với chăn nuôi hộ gia đình. Thịt lợn rừng nhạt hơn thịt lợn thường, da dày, lớp mỡ nhỏ, nhiều nạc, khi chế biến có mùi thơm và dai, giá từ 100.000 đến 120.000 đồng/kg. Lợn rừng lai có thể đạt trọng lượng gần 100 kg nhưng các hộ nuôi thường bán con nhỏ, khoảng từ 5–6 kg vì dễ bán và phù hợp với nhu cầu của người dùng.

Thịt Lợn rừng lai màu hơi nhạt, không đỏ như thịt Lợn nhà, nhưng nhiều nạc, ít mỡ, da mỏng thơm ngon rất đặc trưng, hàm lượng Cholerteron thấp, người tiêu dùng rất ưa chuộng nên bán được giá cao… Đây là giống Lợn dễ nuôi, ít bệnh tật vì có sức đề kháng mạnh. Thức ăn dễ kiếm lại rẻ tiền. Chúng rất mau lớn trong điều kiện nuôi nhốt như cách nuôi Lợn nhà hoặc nuôi thả tự nhiên. Thịt Lợn rừng lai nhờ vào phẩm chất thịt ngon, nhất là ít mỡ nên được thị trường ưa chuộng. Tại các thành phố lớn, thịt Lợn rừng lai được tiêu thụ nhanh mạnh nhưng thực tế cho thấy hiện số cung vẫn chưa đáp ứng nổi số cầu.

Nuôi lợn rừng lai không khó, chỉ cần nắm bắt rõ kỹ thuật chăm sóc, thức ăn chủ yếu là chuối, bắp, sắn, cỏ, rau lang, bên cạnh đó, lợn rừng lai thường có sức đề kháng tốt nên rất ít xảy ra dịch bệnh hiện chỉ thấy mắc bệnh ngoài da và rối loạn tiêu hóa đơn giản, do đó chi phí về thú y rất thấp, chúng phối giống tự nhiên mà hiệu quả, mỗi năm, lợn rừng đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 5-10 con, lợn khoảng 2-3 tháng tuổi, nặng 7–15 kg/con là bắt đầu xuất chuồng; khoảng 6 tháng tuổi, trọng lượng từ 30–35 kg/con thì có thể thanh lọc và nhân giống, điều quan trọng là phải có không gian rộng, chuồng trại thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Riêng thức ăn nên tự cung tự cấp là tốt nhất.

Nuôi Lợn rừng lai, ít tốn chi phí đầu tư, thu nhập hơn gấp 2-3 lần so với nuôi Lợn nhà, nhờ giá Lợn thịt cao, ít hao hụt trong chăn nuôi. Muốn Lợn rừng lai cho thịt đạt yêu cầu thì phải nuôi ít nhất 1 năm, vì hơn 1 năm da Lợn dày lên thịt săn chắt hơn và càng ít mỡ. nuôi Lợn rừng lai vì chúng chỉ ăn thực vật (rẻ tiền), giá bán lại cao. Nguồn thức ăn vô cùng phong phú nên dễ chủ động. Nuôi Lợn rừng lai thì tôi rất an tâm vì đầu tư ít mà thu lợi nhuận nhiều, còn nuôi Lợn nhà phải đầu tư nhiều nhưng lợi nhuận không nhiều, có khi bị thua lỗ.

Đối với Lợn rừng lai, nếu chúng ta nuôi ít từ 5 đến 10 con thì vấn đề thức ăn không quá chú trong. Nhưng nuôi từ 100 con trở lên thì cần quan tâm vì một con nặng 30 kg nó ăn khoảng 3 kg thức ăn xanh/ngày. Như vậy, 100 con ăn 300 kg thức ăn cho mỗi ngày, vì thế người nuôi phải chủ động không được để thiếu hụt nguồn thức ăn. Muốn nuôi Lợn rừng lai với số lượng lớn thì chủ nuôi phải có đất đai rộng rãi, như đất nông trại, đất vườn tạp, đất hoang hóa ở vùng sâu vùng xa như ven biển…

 

3 thoughts on “Lợn rừng lai

  1. Pingback: Kỹ Thuật Làm Chuồng Nuôi Heo Rừng Lai Hiệu Quả - Nông Nghiệp Xanh Bình Định

  2. Pingback: Làm giàu dễ nhờ việc nuôi heo rừng lai - Nông Nghiệp Xanh Bình Định

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *